Cà phê là một thành viên thực vật của họ Rubiaceae, chi Coffea; có khoảng 500 chi và hơn 6.000 loài. Hầu hết là cây nhiệt đới và cây bụi mọc ở tầng dưới của tán cây rừng. Các thành viên khác của họ Rubiaceae bao gồm cây dành dành (gardenia), cây cung cấp ký ninh (quinine) và các chất hữu ích khác, nhưng chi Coffea cho đến nay vẫn là thành viên quan trọng nhất của họ Rubiaceace về mặt kinh tế.
   Có lẽ có ít nhất 25 loài cà phê chính và nhiều loài phụ, tất cả đều là bản địa của vùng nhiệt đới châu Phi và một số đảo nhất định ở Ấn Độ Dương, đặc biệt là Madagascar. Khó khăn trong việc phân loại và thậm chí chỉ định một loài thực vật là một thành viên thực sự của chi Coffea nảy sinh do sự biến đổi lớn trong các loại cây và hạt giống. Tất cả các loài của Coffea đều là cây thân gỗ, chúng từ những cây bụi nhỏ cho đến cây thân gỗ lớn cao trên 10 mét; lá có thể có màu hơi vàng, xanh đậm, đồng hoặc nhuốm màu tím.
   Hai loài cà phê quan trọng nhất về mặt kinh tế là Coffea arabica (cà phê arabica/chè) chiếm hơn 60% sản lượng thế giới và Coffea canephora (cà phê robusta/vối) chiếm khoảng 40% sản lượng thế giới. Một loài khác được trồng với quy mô nhỏ hơn nhiều là Coffea liberica (cà phê liberica) và giống Coffea liberica var. excelsa (cà phê excelsa).

   Tổ chức Cafe Imports tạo ra một sơ đồ về họ Rubiaceae giúp chúng ta dễ dàng hình dung nguồn gốc cũng như việc phát triển tự nhiên hay lai tạo của thực vật cây cà phê như sau:

Lai tạo giữa Arabica và Robusta

Cà phê đã được lai tạo chọn lọc để cải thiện các đặc điểm sinh trưởng và ra hoa, năng suất, kích thước và hình dạng hạt, chất lượng nếm, hàm lượng caffeine, khả năng kháng bệnh và chống hạn. Phép lai giữa arabica và robusta nhằm mục đích cải thiện arabica bằng cách tăng cường khả năng kháng bệnh và sức sống hoặc để cải thiện chất lượng nếm của robusta.

  • Hibrido de Timor là loài lai tự nhiên giữa arabica x robusta, giống cà phê arabica và có 44 nhiễm sắc thể.
  • Catimor là cây lai giữa Caturra và Hibrido de Timor, có khả năng kháng bệnh gỉ sắt trên lá cà phê (Hemileia growatrix).
  • Ruiru 11 là tên một giống lai lùn, được phát triển tại Trạm Nghiên cứu Cà phê ở Ruiru, Kenya, được đưa ra vào năm 1985. Ruiru 11 có khả năng chống lại bệnh hại quả cà phê và bệnh gỉ sắt lá cà phê. Nó cũng cho năng suất cao và thích hợp trồng với mật độ cao gấp đôi so với thông thường.
  • Icatú là kết quả của việc lai tạp nhiều lần giữa các giống lai arabica x robusta với các giống arabica Mundo Novo và Caturra.
  • Arabusta là các cây lai F1 đặc hiệu có khả năng sinh sản từ các phép lai giữa arabica và cà phê robusta tự-tứ bội.

 

Ghi chú:

  • Bậc phân loại trong thực vật học như sau:  Giới -> Ngành -> Lớp -> Bộ -> Họ -> Chi -> Loài -> Giống

            (được dịch từ tiếng Anh: Kingdom -> Phylum -> Classs -> Order -> Family -> Genus -> Species -> Variety)

  • Bậc phân loại thực vật học cây cà phê:  Plantae -> Angeosperma -> Asteridae -> Gentianales -> Rubiace -> Coffea -> Arabica, Canephora ....      ->Typica, Bourbon, Caturra, Timor...

 

-----------------------

Nguồn tham khảo:

Cafe Imports Australia (CI). The coffee family tree

International Coffee Organization (ICO). Nov. 2014
Standard referencesClifford M.N. and Willson K.C. (Editors) - Coffee; botany, biochemistry and production of beans and beverage. London, Croom Helm, 1985.Wrigley G. - Coffee. London, Longman, 1988.

Specialty Coffee Association (SCA). Green coffee Foundation & Intermediate level 

Photo by Dang Cong on Unsplash